Top 9 # Xem Nhiều Nhất Robot Nấu Ăn Việt Nam Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Leparkspa.com

Học Nấu Món Ăn Việt Nam

Món ăn Việt Nam yêu cầu sự tỉ mỉ trong thao tác thực hiện để làm nổi bật hương vị đặc trưng của từng vùng miền khác nhau. Học nấu món Việt hiện đang là lựa chọn của rất nhiều bạn trẻ. Không chỉ đáp ứng nhu cầu đa dạng thực đơn cho gia đình, khóa học còn giúp bạn có thể mở rộng kinh doanh ẩm thực hoặc trở thành đầu bếp chuyên nghiệp.

Bếp Việt là khóa học được nhiều bạn trẻ lựa chọn

Khóa học Bếp Trưởng Bếp Việt được thiết kế dựa trên yêu cầu tuyển dụng thực tiễn tại các nhà hàng, khách sạn cao cấp. Theo đó, nội dung xuyên suốt khóa học nấu ăn tập trung vào các kiến thức và kỹ năng thực hành nghề cần thiết đối với một Bếp trưởng Bếp Việt. Ngoài hướng dẫn phương pháp chế biến các món ngon Việt Nam, lên set menu, khóa học còn cung cấp kỹ năng vận hành bếp, lập dự án kinh doanh ẩm thực… giúp học viên rút ngắn khoảng cách bước đến thành công. Đến với khóa học, bạn sẽ được tiếp xúc với các chuyên gia ẩm thực, Bếp trưởng nhiều kinh nghiệm trong chế biến các món ăn nổi tiếng Việt Nam. Những bí quyết mà các thầy cô truyền đạt trong mỗi buổi học sẽ là tiền đề vững chắc giúp bạn làm nên hương vị hấp dẫn cho những món ăn Việt.

CHƯƠNG TRÌNH HỌC MÓN VIỆT

Buổi

Nghiệp vụ Bếp chính Bếp Việt – Phần 1

Nghiệp vụ Bếp chính Bếp Việt – Phần 2

Nghiệp vụ Quản lý – Bếp Việt

Buổi 23

Ôn tập

Ôn tập

Kiểm tra Kỹ năng đào tạo nghề Buổi 24

Thi giữa kỳ

Thi Nghiệp vụ Bếp chính – Bếp ViệtThi nghiệp vụ Bếp Trưởng Bếp Việt

BẰNG CẤP

Sau khi hoàn thành khóa học Bếp trưởng Bếp Việt với 3 cấp độ: Nghiệp Vụ Bếp Chính Bếp Việt (Phần 1, 2) và Nghiệp Vụ Quản Lý Bếp Việt, học viên sẽ nhận chứng chỉ từ Tổng Cục Giáo Dục Nghề Nghiệp có giá trị trên toàn quốc.

HỌC PHÍ

Học phí này đã bao gồm đồng phục, giáo trình, nguyên vật liệu thực hành trong suốt khóa học, lệ phí thi và cấp chứng chỉ.

Giảng Viên Bếp Việt

Thầy Nguyễn Văn Lập

Thầy Nguyễn Văn Lập là đầu bếp có nhiều năm kinh nghiệm trong chế biến món Việt. Thầy còn đạt được những giải thưởng giá trị như: Siêu đầu bếp Việt Nam (Iron chef), Huy chương bạc liên hoan ẩm thực Đất Phương Nam.

Thầy Đặng Đình Thiết

Với kinh nghiệm trong chế biến những món ăn đặc sản Việt Nam, thầy Đặng Đình Thiết sẽ mang đến cho học viên những bài học giá trị. Hiện, thầy đang là Bếp trưởng của Tổng công ty Cổ phần Giải trí Miền Nam.

Thầy Nguyễn Văn Thuận

Là đầu bếp quen thuộc của nhiều chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình như: Vui sống mỗi ngày, Nấu ăn cùng sao…, thầy Nguyễn Văn Thuận sẽ mang đến cho bạn cách nấu món ăn Việt Nam chuẩn vị.

NHỮNG MÓN ĂN NỔI TIẾNG VIỆT NAM

Nét Đặc Trưng Của Ẩm Thực Miền Bắc Việt Nam – Món Ăn Đường Phố Việt Nam

“Con gà cục tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Bà ơi ra chợ mua tôi đồng riềng

Con trâu ngó ngó nghiêng nghiêng,

Mày có củ riềng để tỏi cho tao”

Nét tinh tế, nhẹ nhàng trong ẩm thực miền Bắc

 Ẩm thực đất Bắc in đậm cốt cách của một nền văn hóa lâu đời. Đến với điểm hẹn kinh đô, thực khách sẽ có cơ hội trải nghiệm những món ăn đặc trưng của đất bắc quyến rũ biết bao tín đồ yêu ẩm thực Việt Nam. Những món ăn nổi tiếng  đất Bắc được những tờ báo ẩm thực nổi tiếng thế giới đánh giá cao.

Đặc trưng hương vị của những món ăn miền Bắc đó chính là hương vị vừa phải, không qua chua, không qua ngọt, không qua cay đề cao sự thanh tao, đạm bạc. Những món ăn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng thực khách đầu tiên phải kể đến món Bún phở. Phở đối với người hoài cổ xưa không đơn thuần là một món ăn, hơn cả đó chính là đại diện cho nền văn hóa. Phở là tiếng lạch cạch bát đũa mi buổi sáng tinh mơ, phở là mùi nước lèo thơm lừng cả một góc phố, phở là một miền ký ức không bao giờ quên với người Hà Nội xưa. Đến Hà Nội để cảm nhận hồn đất, hồn người của xứ Kinh kỳ qua món phở truyền thống.

Chưa dừng lại ở đó ẩm thực miền Bắc còn nổi tiếng với nhiều món ăn trứ danh như: bún chả, bún ốc, bún thang, bún đậu,…cùng nhiều gia vị đặc trưng mắm tôm, tinh dầu cà cuống, rau húng,..Tất cả hòa quyện vào nhau tạo lên hương vị cuốn hút, đặc trưng riêng xứ Kinh Bắc. Vì lẽ đó mà không phải tự nhiên mà người xưa có câu “ ăn Bắc mặc Kinh” những món ăn luôn đề cao tinh thanh đạm, tự nhiên của nó.

Trong các dịp lễ tết, đặc trưng tinh tế của ẩm thực miền Bắc lại được thể hiện vô cùng rõ nét. Hình ảnh “ mâm cao cỗ đây” với “bốn đĩa sáu bát” được trình bày vô cùng bắt mắt, tinh tế. Đối với người dân miền Bắc, hình ảnh mâm cỗ ngày tết vô cùng quan trọng thể hiện được giá trị ẩm thực của người dân đất Bắc.

Đặc trưng của ẩm thực miền Bắc còn thể hiện qua những món bánh. Bánh không đơn giản chỉ là “thức quà” mà hơn cả hơn cả đại diện cho hình ảnh dân dã, mộc mạc, lưu trữ những kỷ niệm đẹp đẽ trong tuổi thơ của người con đất Bắc.

Đặc trưng của ẩm thực miền Bắc luôn tạo ấn tượng sâu sắc trong bản đồ ẩm thực Việt Nam. Mỗi món ăn đều mang những “hương-sắc” riêng níu chân biết bao thực khách khi thưởng thức.

Bàn Về Cách Ăn Và Nấu Ăn Của Người Việt Nam

Hết chuyện nói về âm nhạc rồi sao, hôm nay có lẽ bàn đến một việc “phàm tục” là “nấu” ? Có biết nấu ăn không, lại dám đề cập đến chuyện nấu ăn của người Việt Nam? Có lẽ nhiều bạn sau khi xem qua đầu đề đã đặt câu hỏi như thế.Tôi rất ngại, khi cầm viết ghi lại những câu tôi đã trả lời cho những bạn bè người nước ngoài khi họ hỏi tôi:

-“Người Việt Nam ăn uống như thế nào? Hay là cách nấu ăn cuả người Việt có khác với người Trung Quốc hay chăng?”, vì đó chỉ là những nhận xét đã được nhanh chóng đúc kết để đưa ra những câu “giải đáp kịp thời” chớ không phải do một sự sưu tầm có tính cách khoa học. Trong câu chuyện, một vài bạn trong báo Tuổi Trẻ, thấy “nhận xét sơ bộ” của tôi có phần nào lý thú, “nghe vui tai” nên nhờ tôi ghi ra thành “văn bản”. Nễ lời các bạn, tôi xin gởi đến các bạn đọc vài mẫu chuyện có thật về cách “ăn” và “nấu ăn” và xin các tay nghề nấu ăn trong nước và ngoài nước đừng cười tôi “dốt ham nói chữ”, dám “múa búa trước cửa Lỗ Bang”, “đánh trống trước cửa nhà sấm”.

Trong một buổi tiệc, một anh bạn Pháp hỏi tôi:

– Chẳng biết người Pháp và người Việt Nam ăn uống khác nhau như thế nào?

– Tôi rất ngại so sánh – tôi trả lời – vì so sánh là biết rõ rành mạch cả hai yếu tố để so sánh. Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao biết cách ăn của người Pháp bằng người Pháp chính cống như anh. Tôi chỉ có thể nói qua cách ăn, uống của người Việt chúng tôi. Để anh dễ nhớ. Tôi chỉ đưa ra ba cách ăn của Việt, rồi anh xem người Pháp có ăn như vậy chăng? Người Việt chúng tôi ăn toàn diện, ăn khoa học và ăn dân chủ.

1- Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do đó có nhiều món đem dọn lên, nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi của chúng tôi chẳng hạn: có giá màu trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt màu đỏ, tép màu hồng, thịt luột và sứa màu sữa đục, đậu phộng rang màu vàng nâu v.v… Có khi lại tạo ra hình con rồng, con phụng, trong những món nấu ăn đãi đám hỏi, đám cưới. Sau khi nhìn cái đẹp của món ăn, chúng tôi thưởng thức bằng mũi mùi thơm của các loại rau thơm như húng, quế, ngò, hoặc các mùi đặc biệt của nước mắm, của cà cuống. Răng và nớu đụng chạm với cái mềm của bún, cái dai của thịt luộc và sứa, cái dòn của đậu phộng rang, để cho xúc giác tham gia vào việc thưởng thức một món ăn sau thị giác và khứu giác. Rồi lỗ tai nhe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang. Hay tiếng rào rào của bánh phồng, hay tiếng bánh ráng nướng bể nghe rốp rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những vị khác nhau hòa hợp trong món ăn: lạt, chua, mặn , ngọt, the, cay v.v…. Chúng tôi ăn bằng năm giác quan và cái ăn như thế gói là ăn toàn diện.

2. Ăn khoa học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu, nhất là ở Nhật Bổn, thường hay sắp các thúc ăn theo “âm” và “dương. Nói một cách tổng quát thì những món mặn, thuộc về dương, còn chua và ngọt, thuộc về âm. Người Việt thường trộn mặn và ngọt : làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, một chút đường; ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho vào một chút muối cho “âm dương tương xứng”. Người Phương Tây thi ăn bưởi thật chua, lại cho thêm đường, đã “âm” lại thêm “âm” thì “âm thạnh dương suy” không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không có nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại, thành ra ăn rất khoa học. Chẳng những cân đối về “âm dương” mà còn “hàn nhiệt” nữa: thịt vịt hay thịt cá trê “hàn” thì chấm với nước mắm gừng mà gừng thì nhiệt.

Cách ăn của người Việt Nam khoa học vì phù hợp với nguyên tắc âm dương tương xứng, hàn nhiệt điều hòa, ngoài ra trong một món ăn thường đã có chất bột, chất thịt, chất rau làm cho sự tiêu hóa được dễ dàng.

3.Ăn dân chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng chúng tôi có thể ăn những món chúng tôi thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của chúng tôi, ăn ít hay ăn nhiều, tùy theo sức chứa chứ không phải bị bắt buộc phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nỗi. Như vậy cách ăn của người Việt Nam rất dân chủ.

Anh bạn Pháp thích chí cười to:

-“Ăn toàn diện chúng tôi chưa nghĩ đến, nhứt là về thính giác, ăn mà nghe tiếng động là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học thì chúng tôi, chỉ nghĩ đến calory mà không biết âm dương hàn nhiệt. Còn dân chủ thì hoàn toàn thiếu sót vì khách đến nhà, chúng tôi chỉ có một thực đơn và mỗi người một đĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm, hoặc quá no cũng phải cố gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan nghinh cách ăn của người Việt Nam.”

Về cách “nấu ăn” hay “nghệ thuật làm bếp” của người Việt Nam khác với người Trung Quốc ra sao?

Một lần khác, một anh bạn của tôi khai trương một tiệm ăn lớn tại Paris. Anh có mời đài phát thanh và báo chí đến để cho biết rằng tiệm của anh có cả thức ăn Trung Quốc và Việt Nam. Các phóng viên muốn biết Việt Nam và Trung Quốc nấu ăn khác nhau như thế nào, hai đầu bếp Việt Nam và Trung Quốc được mời ra để báo chí hỏi thì hai người đều khẳng định là cách nấu ăn rất khác nhưng phải xuống bếp mới thấy. Nhà bếp nhỏ không chứa được mấy chục phóng viên và ai cũng ngại hỏi dầu hỏi mỡ nên ông chủ tiệm ăn nhờ tôi tìm câu trả lời cho các nhà báo. Tuy không phải là một chuyên gia về nghệ thuât nấu bếp, nhưng tôi cũng phải tìm câu trả lời thế nào để cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba điểm khác nhau trong cơ bản:

1.Cách dùng bột: Người Việt Nam thường dùng bột gạo trong khi người Trung Quốc thich dùng bột mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu, bún thang, bún bò, bún riêu, mà người Trung Quốc chuyên về mì nước, mì khô, mì nhỏ, mì lớn, mì vịt tiềm. Người Việt là bánh đùm, bánh xếp, bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc thì có bánh bao. Chả giò người Việt Nam cuống bằng bánh tráng bột gạo. Còn người Trung Quốc thì cuốn giá trong bánh bằng bột mì.

2.Nước chấm cơ bản của người Việt Nam là nước mắm làm bằng cá, còn nước chấm cuả người Trung Quốc là xì dầu làm bằng đậu nành.

3.Người Việt thường pha mặn và ngọt. Người Trung Quốc thích chua và ngọt

Chỉ nói đại khái như vậy mà các phóng viên đã hài lòng, về viết trong bài tường thuật, nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông giám đốc tạp chí “Đông Nam Á”, sau khi nghe lời nhận xét đó, cho phóng viên đến, phỏng vấn tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu tố nào khác đáng kể khi nói về cách nấu ăn của người Việt khác người Trung Quốc ở chỗ nào. Tôi trả lời cho phóng viên, 40 phút. Hôm nay tôi chỉ tóm tắt cho các bạn những điểm chánh sau đây:

a.Về rau cải: Người Việt tuy có ăn rau luộc, hay xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc không ưa ăn sống như cải sống, giá sống.

b.Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt Nam. Nhưng người Trung Quốc có cá mặn không làm mắm như người Việt. Có rất nhiều cách làm mắm và ăn mắm: mắm thái, mắm nêm, mắm ruốc, mắm tôm v.v…Các nước Đông Nam Á cũng có làm mắm nhưng không có nước nào biết làm nhiều loại mắm như người Việt,

c.Về thịt thì Trung Quốc biết quay, kho, luộc, xào, hầm như người Việt, mà không biết làm nem và các loại chả như chả lụa, chả quế v.v…

d. Người Trung Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong một món ăn như người Việt. Khi chúng ta ăn một món như nem nướng thì có bao nhiêu vị: lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi mát mát ngọt ngọt nhưu dưa leo, vị đặc biệt của giá sống, trộn với khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng da cá bùi bùi, và tương mặn và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật nấu ăn rất thích lối “đa vị” và tất cả các vị ấy bổ sung cho nhau, tạo ra một “vị tổng hợp” rất phong phú.

Cái “ăn” chiếm phần khá quan trọng trog đời sống của chúng ta. Khi dạy dỗ một trẻ em thì phải cho nó “học ăn, học nói, học gói, học mở” để biết “ăn, nói” với người ta. Ra đường phải biết “ăn bận” hay “ăn mặc” cho phải cách phải thế. Đối với mọi người không nên “ăn thua” làm chi cho bận lòng. Làm việc gì phải cẩn thận “ăn cây nào, rào cây nấy”. Trong việc tiêu tiền phải biết “liệu cơm gắp mắm” và dẫu cho nghèo đi nữa “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Không nên ham ăn quá độ vì “no mất ngon, giận mất khôn”. Ra làm ăn phải quyết tâm đừng “cà lơ xích xụi” chạy theo “ăn có” người khác. Phải biết “ăn chịu” với người làm việc nghiêm túc, thì công việc khỏi bị “ăn trớt”. Không nên “ăn gian ăn lận”, hay bỏ lỡ cơ hội thì “ăn năn” cũng đã muộn. Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất nước đừng để mang tiếng “ăn hại” “ăn bám” của người khác. Khi đàn chơi phải biết lên dây cho “ăn” với gọng ca, hòa đàn cũng phải “ăn” với nhau, “ăn ý”. “ăn rơ” thì mới hay.

Các bạn thấy chăng? Cái “ăn” cũng khá quan trọng nên mới lọt vào một số từ ngữ của tiếng nói Việt Nam.

Tuy chúng ta không như người Trung Quốc “dĩ thực vi tiên” nhưng phải có ăn mới làm nên việc vì “có thực mới vực được đạo”.

TRẦN VĂN KHÊ

Công Thức Nấu 4 Món Ăn Truyền Thống Việt Nam

Thịt giăm bông Parma, Ý

Bạn có thể thấy loại giăm bông này bọc ngoài những miếng dưa vàng, bọc ngoài bánh mì que giòn, đặt lên trên những miếng pizza hay trên những đĩa sa lát.

Gỏi cuốn, Việt Nam

Gỏi cuốn là món ăn nhẹ làm từ thịt lợn, tôm, bún tươi, rau thơm và một số nguyên liệu khác. Tất cả được cuốn trong một lớp bánh tráng gạo mỏng. Món này dùng kèm với nước chấm có vị ngọt, mặn, chua và rắc thêm đậu phộng (lạc) giã nhỏ.

** Nguyên liệu làm nước chấm – 1/2 chén tương ăn phở ( hoisin sauce) – 1 củ hành hương – 1 muỗng cà phê bơ lạc – 1 ít đường Cách làm 1. Tôm để cả vỏ, rửa qua với nước muối, dùng dao tách đường chỉ đen ở sống lưng tôm, tỏi bằm nhuyễn 2. Cho nồi nhỏ lên bếp, cho tỏi vào, cho tôm vào, lấy đũa đảo đều, để lửa nhỏ, (làm vậy thịt tôm vẫn còn ngọt, không đổ nước), lấy đũa đảo đều cho tôm đừng bị cháy, khoảng 5 phút lấy ra, rắc vào một chút muối, tiêu, lột vỏ, cắt đôi tôm hay để nguyên con tuỳ thích. 3. Thịt gà rửa với muối, nấu nồi nước trong đó cho gừng, đợi nước sôi thả gà vào. Luộc thịt chín, cắt lát mỏng hay xé sợi tùy theo ý thích. 4. Bắc nồi nước thật sôi, cho bún vào luộc chín. Vớt bún ra, xả nước lạnh, rồi dội qua bằng nước ấm cho bún không bị dính. Để ráo 5. Rau xà lách và các loại rau thơm nhặt rửa sạch, để khô cho ráo nước. *** Cuốn bánh: Bánh tráng nhúng nước ấm chờ mềm, cho rau, bún vào, cuốn 1 vòng. Vòng cuốn thứ hai, xếp thịt, và tôm, gấp hai đầu bánh tráng, cuốn nhanh đều tay và chặt tay để khi ăn rau không rơi ra ngoài. Xếp các gỏi cuốn ra đĩa. **** Cách làm nước chấm: 1. Hành hương thái nhỏ. Chảo nóng cho dầu vào phi hành cho thơm rồi bỏ 1/2 chén tương ăn phở vào, nhỏ lửa. 2. Xào tương ăn phở với hành hương cho thơm rồi bỏ 1 muỗng cà phê bơ lạc và một đường vào, trộn đều, tắt lửa. Nên để nhỏ lửa và làm nhanh tay để tương phở không bị cháy. Lúc ăn cho đậu phộng và cà rốt bào sợi mỏng ngâm dấm đường vào.

Bò bít tết Ohmi-gyu, Nhật Bản

Loại thịt bò cao cấp Wagyu của trang trại Takara nổi tiếng của Nhật Bản đã được công nhận bởi cung điện hoàng gia Nhật Bản là một trong những nguồn cung thịt bò lớn nhất trong 400 năm qua.

Phở, Việt Nam

Phở là một món ăn truyền thống của Việt Nam, cũng có thể xem là một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng (hay nước lèo theo cách gọi miền Nam) cùng với thịt bò hoặc gà cắt lát mỏng. Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như: tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt,… Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩu vị của từng người dùng. Phở thông thường dùng làm món ăn điểm tâm, hoặc ăn tối. Ở các tỉnh phía Nam Việt Nam, phở được bày biện với những thành phần phụ gọi là rau thơm như hành, giá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai là loại lá đặc trưng của phở. Phở thường là phở bò, nhưng cũng có phở gà, phở heo, phở tôm,…